Đường 9 : trăm năm chất chứa thăng trầm
Bến Đuồi ngay sát chợ phiên, còn núi Lãnh chính là núi Mai Lĩnh (Quảng Trị), còn sông Hương xứ Huế thì được thông thương bằng sông đào Vĩnh Định dưới thời nhà Nguyễn, nối kinh sư với Quảng Trị bằng sông Thạch Hãn và sông Hiếu. Hàng hóa từ kinh kỳ có mặt tại chợ phiên Cam Lộ theo đường thủy, rồi lên với miền ngược theo con đường tiền thân QL 9 bây giờ.
Thật ra cách đây hàng trăm năm, chợ phiên Cam Lộ còn là một trung tâm ngoại thương tấp nập trên bên dưới thuyền. Tàu bè Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… từ Cửa Việt lên chợ phiên mua bán, rồi voi từ xứ Ai Lao thồ lâm đặc sản như trầm hương, ngà voi xuôi theo con đường xuyên sơn về trao đổi hàng hóa. Hãy nghe Lê Quý Đôn miêu tả trong Phủ biên tạp lục: “Hai bên tả hữu phía trên sông Hữu Giang dân các động sách ở, cày cấy chăn nuôi rất nhiều, người buôn ở các xã thường mang muối, mắm, cá khô, đồ sắt, nồi đồng, thỏi bạc, hoa xuyến, đồ lặt vặt, đến đất người Man đổi lấy các hàng hóa: thóc, gạo, gà, trâu, gai, sáp, mây, gió, vải man, màn man, thuê voi chở về Cam Lộ. Người Man cũng có lấy voi chở hàng hóa xuống chợ Cam Lộ để bán, một con voi chở được 30 gánh, mỗi gánh được 20 bát.
Cũng có một phiên chợ lùa trâu đến 300 con để bán, giá một con trâu không quá 10 quan, giá một con voi chỉ hai hốt bạc và một khẩu súng nhỏ”. Ông còn nhắc đến Tuần Ba Giăng còn gọi là Sở Tuần hay đồn Hiếu Giang, một nơi triều đình lập ra thu thuế buôn bán ngày xưa. Vậy thì truyền thống nội và cả ngoại thương của Quảng Trị đã có từ khá sớm và rất đáng tự hào dù chỉ dựa vào một con đường mòn xuyên Á và mấy con sông.
2. Người Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi khai thác Đông Dương đã chú trọng đến giao thông và chính họ đã khai sáng con đường 9 dù mục đích ban đầu vì lợi ích thực dân của chính quốc, chính vì vậy lúc mới khai sinh còn có tên là Con đường Thuộc địa số 9. Ngay tại điểm khởi đầu đường 9, đầu thế kỷ trước, người Pháp cho xây dựng ga Đông Hà phục vụ cho con đường sắt Bắc-Nam. Chuyện làm con đường 9 cũng lắm đau thương. Ngày xưa ngược lên phía tây Quảng Trị là chốn rừng thiêng nước độc, không chết vì lao lực, đòn roi thì cũng chết vì sốt rét. Tình cảnh ấy đã rơi lệ vào những câu vè than thân của phu lục lộ: “Hai hàng nước mắt nhỏ tuôn/Cả năm phủ huyện kéo lên nguồn, trời ơi/Cực chi da diết hỡi trời/Ai không có chiếu trải tơi mà nằm”.
Tôi may mắn gặp được nhân chứng cu-ly đường 9 cuối cùng nay tuổi đã 90. Ông tên Lê Văn Đen, trú tại thôn Cam Phú, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông là phu làm đường vào năm 1940 vì con đường này làm nhiều thời kỳ khác nhau mới hoàn chỉnh kéo dài sang đến tận biên giới Lào-Thái Lan ở sông Mê Kông. Thuở ấy cách đây hơn ¾ thế kỷ, ông chỉ là cậu thanh niên mới lớn, phải đi làm thay cha mẹ theo lệnh của người Pháp và quan lại Nam triều.
Ông lão râu tóc bạc phơ kể lại: “Thời Pháp thuộc làm con đường 9 từ Đông Hà sang Lào dân mình cũng khổ lắm. Mỗi thôn phải cử ra 5, 6 người đi làm phu, làm từ sáng đến tối, làm cả tuần, cả tháng, cả năm, chủ yếu làm bằng tay, người đào đất, kẻ gánh đất. Người lớn làm đường hay bị đánh đập, tui mới lớn đỡ bị roi vọt hơn. Hồi đường mới làm sơ khai đoạn trên ni (km25, QL9) bề ngang khoảng chừng hai mét thôi, về sau mở rộng dần ”.
Trong kháng chiến chống Pháp có một sự kiện đáng nhớ, đó là sự ra đời của một đơn vị quân đội đặc biệt, gọi là “Biệt động đội đường số 9” do nhà văn, nhà báo, nhà lý luận phê bình Hồng Chương người Quảng Trị tham gia chỉ huy. Đơn vị này đã đánh nhiều trận từ Khe Sanh, Rào Quán về Đầu Mầu rồi Đèo Đá, Cầu Đuồi (Cam Lộ). Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, có thể số phận con đường 9 đã rẽ sang một lối khác nếu không có sự can thiệp của các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc.
Một vấn đề mang tính chiến lược được các bên tham gia hội nghị Genever quan tâm là vĩ tuyến nào làm giới tuyến tạm thời và theo đó con đường 9 sẽ thuộc về ai? Và vĩ tuyến 17 đã được thỏa thuận làm giới tuyến tạm thời và đường 9 thuộc về chính quyền Nam Việt Nam. Một cuộc chiến đằng đẵng đang chờ đợi cả dân tộc ở phía trước con đường thống nhất non sông.
3. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc chống Mỹ thì chiến dịch Lam Sơn 719 (tháng 9 năm 1971) đã đi vào lịch sử và sách báo cũng đã nói đến nhiều. Chỉ xin nhắc lại và lưu ý một sự kiện sau đó một năm cạnh con đường 9, đó là sự trở về của trung đoàn bộ binh 56 thuộc sư đoàn 1, quân đội Sài Gòn. Năm 1972, khi bị bao vây ở cao điểm 241 còn được người Mỹ gọi là căn cứ Carroll, sau khi cân nhắc đã chịu đầu hàng để tránh đổ máu, trung tá trung đoàn trưởng trung đoàn 56 Phạm Văn Đính đã đầu hàng. Đó là quyết định không đơn giản trong cuộc đời của một sĩ quan chuyên nghiệp, hẳn nó được manh nha ấp ủ từ lâu. Đó là biểu tượng nhân văn trong chiến tranh khốc liệt theo tinh thần đồng bào lấy đại nghĩa, tình thương làm trọng mà sau này Bộ Chính trị đã thể hiện thành nghị quyết về hòa hợp, hòa giải dân tộc.
Có người bảo, chiến tranh đã đi qua, không cần phải quá nhấn mạnh chủ trương “nối vòng tay lớn”. Tuy nhiên, nói như một bậc thức giả nếu coi sự hợp quần là chiến thuật thì đó là bá đạo, còn nếu coi đó là chiến lược thì chính là vương đạo. Cố kết lòng người, thu phục nhân tâm thì luôn phải thực lòng và luôn là chiến lược hàng đầu, phải thực hiện bền bỉ dài lâu. Đây vẫn là vấn đề thời sự nóng hổi.
Còn nhớ sau năm 1975, từng đoàn xe vận tải mang biển số quân đội sang Lào. Trên buồng lái luôn có súng trường AK hoặc thường là M.16 chiến lợi phẩm gác chéo. Không phải để lấy lệ mà để tự vệ khi xe chạy sang đất Lào theo con đường 9. Vào những năm đầu sau ngày thống nhất, tàn quân phỉ Vàng Pao vẫn phục kích trên đường chặn đánh bộ đội Việt Nam. Lực lượng Vàng Pao dù không còn đông đến hơn ba vạn như thời được CIA o bế làm mưa làm gió ở Tam Giác Vàng nhưng cũng vẫn là nỗi lo của nước bạn, chúng chỉ ngán bộ đội Việt Nam. Cánh lính vận tải Trường Sơn vốn đã dạn dày trận mạc, luôn sẵn sàng đương đầu với thổ phỉ khi làm nhiệm vụ vận tải. Đã có đụng độ đương nhiên phải có thương vong, dù cả hai đất nước đã thống nhất và hòa bình. Kể thêm điều này để hiểu thêm một đặc điểm của lịch sử đường 9 còn ít được biết tới.
4. Rồi một ngày đẹp trời con đường xuyên Á đã được gọi tên trên hành lang kinh tế Đông-Tây, gọi tắt là EWEC tại Hội nghị các bộ trưởng tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng được tổ chức tại Manila (Philippines). Hành lang này được chính thức thông tuyến vào ngày 20.12.2006, cách đây đúng 10 năm. Đây là con đường dài 1450 cây số kéo dài từ Mianmar qua Thái Lan, Lào và đi vào Việt Nam từ tỉnh Quảng Trị thông qua con đường 9. Một vận hội lớn đã mở ra cho nhiều quốc gia Đông Nam Á, trong đó miền Trung nước ta.
Lịch sử thường được hiểu là dài rộng, lớn lao nhưng đôi khi lại dồn tụ trong vài chục bước chân khi sau lưng nhà ông Lê Văn Đen là con đường 9 do Pháp xây dựng, còn trước mặt nhà lại con đường 9 được người Mỹ cấp tốc làm nên vào 1971. Hay nếu ai dừng chân ở cầu Đầu Mầu sẽ thấy có đến ba chiếc cầu chính thức mang bóng dáng lịch sử: một do Pháp xây, một do Mỹ xây và một (đúng ra được xây hai lần) do nhà nước ta xây sau ngày thống nhất. Câu chuyện trăm năm quần tụ bây giờ hiện rõ một nơi mặc cho bao nhiêu con nước Hiếu Giang đã chảy qua cầu…
Đổi thay dọc theo và nhờ con đường 9 – đường xuyên Á thì có nhiều. Riêng tôi vẫn nhớ Lê Qúy Đôn viết rằng từ xã Cam Lộ (như đoạn chợ phiên) lên Tuần Ba Giăng phải đi hết một ngày đường, đủ biết con đường mòn băng qua núi rừng quanh co, hiểm trở. Thời Pháp thuộc, bà con vùng này còn đi bộ về chợ phiên, đi từ khi trời chưa sáng, đi cả đoàn nối nhau đòn xóc chỉa lên trời để tránh bị cọp vồ. Thời bao cấp sau năm 1975 vẫn có những đoàn người rồng rắn đi phiên. Nay sau xuất phát chỉ cần chưa đầy mười phút, ô tô đã đến nơi thong thả, chén trà mới pha còn chưa kịp nguội, đâu cần đợi cả ngày trời. Có một con đường mòn đã thành đường xuyên Á, đi từ quá khứ đến tương lai.
Phạm Xuân Dũng ( theo laodong.com.vn)