Thế nào là Vương cung thánh đường?
Vương cung thánh đường (Basilica), có gốc từ tiếng Hy Lạp: Basiliues, nghĩa là nhà vua. Thời đế quốc La Mã, các thành phố đều có những kiến trúc to lớn có thể chứa nhiều người đến nghe giảng thuyết. Những toà nhà như vậy được gọi là basilica. Thời đạo Công giáo trở thành quốc giáo của La Mã thì basilica được giành cho giáo hội cử hành những nghi lễ lớn khi có Giáo hoàng chủ sự.
Vương cung thánh đường ngày nay chia làm hai loại: đại và tiểu Vương cung thánh đường. Toàn thế giới có 4 đại Vương cung thánh đường (Major basilica) và 1575 tiểu Vương cung thánh đường (Minor basilica). 4 đại Vương cung thánh đường đều nằm ở Italia là nhà thờ thánh Phêrô, nhà thờ thánh Phaolô ngoại thành, nhà thờ thánh Gioan Latêranô và nhà thờ Đức Bà Cả, trong đó đẹp đẽ và lộng lẫy nhất là nhà thờ thánh Phêrô. Các đại Vương cung thánh đường có một cửa đặc biệt gọi là Cửa thánh (Porta sancta). Cửa này luôn đóng và chỉ được mở vào năm thánh, 50 năm một lần.
Các tiểu Vương cung thánh đường nằm rải rác khắp các quốc gia. Nhiều nhất là Italia: 539 ngôi (riêng thủ đô Rôma có 11 ngôi), Pháp 168, Đức 70, Hoa Kỳ 66, Philippin 12, Trung Quốc 1…Việt Nam có 4 tiểu Vương cung thánh đường. Khi một nhà thờ được nâng lên hàng tiểu Vương cung thánh đường sẽ được Toà thánh trao cho 2 biểu trưng của Giáo hoàng. Một là cái chuông (tintinnabulum) dùng để báo tin Giáo hoàng hay người thay mặt Giáo hoàng đến. Hai là cái dù bằng lụa có hai màu vàng, đỏ (conopacum) dùng để che cho Giáo hoàng.
Để trở thành tiểu Vương cung thánh đường, nhà thờ đó phải là nhà thờ cổ kính được xây dựng từ lâu theo các kiến trúc cổ điển, to đẹp. Nhà thờ chỉ dành riêng cho việc thờ phượng, là nơi lưu giữ di hài các thánh nhân hay những hoạ phẩm, điêu khắc có giá trị nghệ thuật…Ngoài ra nhà thờ cũng phải có một ban lễ tân đủ sức đảm nhiệm phục vụ các lễ lớn. Chính Giám mục sở tại làm tờ trình xin Toà thánh châu phê.
Tại Việt Nam hiện nay có hơn 6000 cơ sở thờ tự Công giáo trong đó có 5456 nhà thờ nhưng chỉ mới có 4 nhà thờ được nâng lên bậc Vương cung thánh đường. Đó là nhà thờ Đức Bà (thành phố Hồ Chí Minh), nhà thờ Phú Nhai (Nam Định), nhà thờ La Vang (Quảng Trị) và nhà thờ Sở Kiện (Hà Nam).
VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG LA VANG
Theo tương truyền, thời Cảnh Thịnh ban hành chính sách cấm đạo, nên tín hữu phải chạy trốn vào rừng thuộc khu vực xã Hải Phú, Hải Lăng, Quảng Trị ngày nay. Giáo dân cầu khấn và Đức Mẹ đã hiện ra năm 1798 để an ủi. Sau đó một ngôi nhà thờ nhỏ được dựng lên để ghi dấu sự kiện này. Năm 1886, Giám mục Gaspar Lộc cho xây một ngôi nhà thờ bằng gạch và khánh thành ngày 6- 8-1901 đồng thời ấn định cứ 3 năm tổ chức một đại hội tam nhật kính Đức Mẹ. Năm 1923, Giám mục Allys Lý xây một nhà thờ lớn hơn, khánh thành tháng 8-1928 nhưng bom đạn chiến tranh năm 1972 đã phá đổ chỉ còn trơ lại tháp chuông. Năm 1961-1962 một số kiến trúc như Công trường Mân Côi với 15 pho tượng bằng đá cẩm thạch, hồ Tịnh Tâm và ba cây đa cao 20m với tượng Đức Mẹ bồng con do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Năm 1998, tượng Đức Mẹ La Vang do nhà điêu khắc kiêm hoạ sĩ Văn Nhân đã được làm phép thay thế tượng cũ. Tượng này mang đậm phong cách dân tộc từ trang phục đến nét mặt và được Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 làm phép ngày 1-7-1998 tại Roma, sau đó chuyển về Việt Nam dịp kỷ niệm biến cố 200 năm Đức Mẹ La Vang.
Thời gian vừa qua, Nhà nước đã trao quyền sử dụng 19ha cho giáo hội sử dụng nên Hội đồng Giám mục Việt Nam đã quyết định xây lại nhà thờ La Vang cho xứng với Trung tâm hành hương quốc gia. Một cuộc thi về thiết kế đã được tổ chức năm 2010 và 5 đồ án đã được trao giải nhì để hoàn thiện thêm. Đến ngày 06-01-2011 nghi thức đặt viên đá đầu tiên do Hồng y Ivan Dias- Đặc sứ của Giáo Hoàng Benedicto XVI và các Giám mục Việt Nam đã được tiến hành đúng vào dịp bế mạc Năm thánh nhân 50 năm hàng giáo phẩm Việt Nam (1960-2010). Dự kiến chi phí cho nhà thờ mới là 40 triệu đôla.
Về địa danh La Vang cũng có nhiều cách giải thích. Có người cho đây là nói về đặc điểm của rừng núi nơi đây khi người ta “ la” thì có tiếng “vang” lớn dội lại. Có người lại cho đây là vùng có rất nhiều cây lá vằng vừa để làm nước uống, vừa chữa bệnh, sau này khi dịch ra tiếng nước ngoài bị mất dấu mà thành La Vang.
Từ năm 1894 mới có đại hội La Vang đầu tiên và năm 2011 là đại hội lần thứ 29. La vang được nâng lên bậc Vương cung thánh đường năm 1961.
Bài viết và ảnh : Nguyễn Phú Đức